Trà đen được tạo ra khi lá trà héo, cuộn, và bị oxy hóa hoàn toàn.
Ngược lại, trà xanh được làm từ lá tươi mà không bị oxy hóa. Trà Oolong được
làm từ lá héo và bị oxy hóa một phần, tạo ra một loại trà trung gian. Trà trắng
được làm từ lá non hoặc chồi tăng trưởng đã trải qua quá trình oxy hóa tối
thiểu. Sấy khô có thể ngăn chặn quá trình oxy hóa.
Trà là một trong những thức uống cổ xưa và phổ biến ở Việt Nam
và nhiều nước trên thế giới như Nhật, Trung Quốc, Anh, Mỹ… Trà được làm từ lá
của cây Camellia sinensis. Một thời gian ngắn sau khi thu hoạch, lá trà bắt đầu
héo và bị ôxy hóa. Trong suốt quá trình oxy hóa , các chất hóa học trong lá bị
phá vỡ bởi các enzym, lá trở nên sẫm màu và có mùi thơm.
Quá trình oxy hóa này có thể được ngăn chặn bằng cách nung nóng
nhằm làm bất hoạt các enzym.
Trà gồm các polyphenol, các alkaloid (cafein, theophyllin và
theobromine), các acid amin, carbohydrate, protein, chất diệp lục, các hợp chất
hữu cơ dễ bay hơi (chất hóa học dễ dàng tạo thành hơi và tạo mùi cho trà),
florua, nhôm, khoáng chất, và nguyên tố khác.
Các polyphenol, nhóm lớn các chất hóa học từ thực vật bao gồm
các catechin, có lợi cho sức khỏe.
Các catechin hoạt động và phong phú nhất trong trà xanh là
epigallocatechin-3-gallate (EGCG).
Các polyphenol trong trà xanh chứa nhiều EGCG, EGC, ECG và EC-,
theaflavins và thearubigins trong trà đen có hoạt tính chống oxy hóa (5), đặc
biệt là EGCG và ECG, có khả năng thu nhặt các gốc tự do và bảo vệ tế bào khỏi
sự phá hủy DNA do các gốc oxy phản ứng (ROS) gây ra.
Polyphenol trong trà cũng có tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào
ung thư và kích hoạt quá trình chết tự nhiên của tế bào (apotosis) trong nghiên
cứu ở phòng thí nghiệm và trên động vật.
Trong các nghiên cứu ở phòng thí nghiệm và trên động vật khác,
catechin trong trà đã được chứng minh khả năng ức chế sự hình thành mạch và xâm
lấn của các tế bào ung thư.
Ngoài ra, chất polyphenol trong trà có thể bảo vệ chống lại
những tác lại gây ra bởi bức xạ tia cực tím (UV), đồng thời còn có khả năng
điều chỉnh chức năng của hệ thống miễn dịch.
Hơn nữa, trà xanh còn có thể kích hoạt các enzym giải độc, chẳng
hạn như Glutathione S-transferase và Quinone reductase, có thể chống lại sự
phát triển của khối u.
Mặc dù rất nhiều các tác động có lợi của trà được cho là do hoạt
tính chống oxy hóa mạnh mẽ của polyphenol trong trà, tuy nhiên, cơ chế chính
xác giúp ngăn ngừa bệnh ung thư của trà vẫn chưa được đưa ra.
Liên quan đến trà xanh, chúng ta có thể nhìn vào hai nghiên cứu.
Trong một nghiên cứu ở phụ nữ Nhật Bản đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở
giai đoạn đầu (không di căn), những người tiêu thụ ít nhất ba tách trà xanh mỗi
ngày, có khả năng tái phát ít hơn 57% so với những phụ nữ uống một tách hoặc ít
hơn mỗi ngày.
Một nghiên cứu khác cũng tại Nhật cho thấy những người đàn ông
bị ung thư tuyến tiền liệt uống hơn năm cốc trà mỗi ngày sẽ giảm 50% nguy cơ
tiến triển ung thư.
Mách bạn cách uống trà đúng
cách
Trà được FDA Hoa Kỳ công nhận là an toàn. Nghiên cứu an toàn
được xem xét dựa trên khả năng tiêu thụ lên đến 1200 mg EGCG khi bổ sung ở
người lớn khỏe mạnh trong khoảng thời gian từ 1 đến 4 tuần.
Các tác dụng phụ được báo cáo trong các nghiên cứu này bao gồm
thừa khí trong ruột, buồn nôn, ợ nóng, đau dạ dày, đau bụng, chóng mặt, nhức
đầu, đau cơ.
Trong một nghiên cứu ở Nhật Bản, trẻ em từ 6 đến 16 tuổi uống
nước giải khát trà xanh có chứa 576 mg catechin (nhóm thực nghiệm) hoặc 75 mg
catechin (nhóm chứng) trong 24 tuần không có tác dụng phụ. Chưa có nghiên cứu
cho thấy hàm lượng catechin cao hơn có an toàn đối với trẻ em hay không.
Như những thức uống chứa caffeine khác chẳng hạn như cà phê và
cola, caffeine chứa trong nhiều sản phẩm chè có thể gây ra tác dụng phụ, bao
gồm nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, mất ngủ, bồn chồn, lo lắng, run, nhức đầu,
đau bụng, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy , và lợi tiểu.
Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng về những tác hại ảnh hưởng đến
sức khỏe của người lớn khi tiêu thụ một lượng vừa phải caffeine (khoảng 300 mg
đến 400 mg mỗi ngày).
Không có nhiều nghiên cứu đề cập đến tác động của caffein trên
trẻ em. Tóm lại, liều lượng cafein ít hơn 3 mg/kg trọng lượng cơ thể không dẫn
đến tác dụng phụ ở trẻ em. Liều cao hơn có thể dẫn đến một số ảnh hưởng hành
vi, chẳng hạn như gia tăng căng thẳng hoặc lo âu và rối loạn giấc ngủ.
Trà đen và trà xanh có thể ức chế hoạt tính sinh học của sắt
trong ăn uống. Tác động này có thể ảnh hưởng quan trọng đến những người bị
thiếu máu thiếu sắt.
Các tác giả của 35 nghiên cứu về ảnh hưởng của việc uống trà đen
đối với tình trạng thiếu sắt ở Anh kết luận rằng, mặc dù uống trà hạn chế sự
hấp thu sắt trong ăn uống nhưng không có đủ bằng chứng để kết luận rằng có ảnh
hưởng đến hemoglobin và nồng độ ferritin trong máu ở người lớn.
Sự tương tác giữa trà và sắt có thể được giảm nhẹ bằng cách tiêu
thụ thực phẩm tăng cường hấp thu sắt trong cùng một bữa ăn, chẳng hạn như những
loại có chứa vitamin C (chanh), và các loại thực phẩm có chứa nhiều sắt (thịt
đỏ).
Uống đồ uống rất nóng có thể
gây ung thư?
Bên cạnh việc dùng các thức uống có chứa các chất có lợi cho sức
khỏe hằng ngày thì việc dùng như thế nào cũng rất quan trọng. Cơ quan Nghiên
cứu Quốc tế về Ung thư (IARC) thuộc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phân loại
uống đồ uống rất nóng vào nhóm có thể gây ung thư cho con người (Nhóm 2A).
Đồ uống rất nóng là đồ uống nóng hơn 65°C (149 độ Fahrenheit).
Tại Mỹ, cà phê, trà, sô cô la nóng, và các đồ uống nóng khác
thường được uống ở nhiệt độ thấp hơn 65°C (18).
Điều này được đưa ra dựa trên bằng chứng hạn chế từ các nghiên
cứu dịch tễ học cho thấy có sự liên quan giữa bệnh ung thư thực quản và uống đồ
uống rất nóng.
Các nghiên cứu ở những nơi như Trung Quốc, Cộng hòa Hồi giáo
Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nam Mỹ, mate và trà được uống theo kiểu truyền thống ở
nhiệt độ rất nóng (khoảng 70°C), cho thấy nguy cơ ung thư thực quản tăng lên tỉ
lệ thuận với nhiệt độ của thức uống khi uống (18)
Trong các thí nghiệm liên quan đến động vật, cũng có bằng chứng
hạn chế cho thấy khả năng gây ung thư của nước rất nóng.
Ung thư thực quản là ung thư phổ biến thứ 8 trên toàn thế giới
và là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong với khoảng 400 000 trường
hợp tử vong được ghi nhận trong năm 2012 (5% của tất cả các trường hợp tử vong
do ung thư).
Tuy nhiên, tỷ lệ các trường hợp mắc bệnh ung thư thực quản mà có
liên quan đến việc uống thức uống nóng thì không được biết đến (18).