Cập nhật tin tức y khoa, tổng hợp các bài giảng mới nhất từ các tổ chức y tế uy tín trên thế giới, phác đồ điều trị, cách sử dụng thuốc. Chia sẻ tài liệu y khoa.

Full width home advertisement

QUẢNG CÁO

Biểu hiện lâm sàng

  • Tăng huyết áp thường được phát hiện tình cờ khi đi khám kiểm tra sức khỏe định kỳ, những trường hợp này không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng.
  • Phát hiện và đánh giá tăng huyết áp tốt nhất đòi hỏi phải chính xác bằng đo huyết áp không xâm lấn khi bệnh nhân ngồi với tay ở trạng thái nghỉ đặt ngang mức với tim. Sử dụng băng cuốn đo huyết áp thích hợp (bơm hơi bao quanh ít nhất 80% của cánh tay) vì nếu băng cuốn quá nhỏ có thể gây sai lệch kết quả (cao hơn giá trị thật).
  • Hai lần đo có thể thực hiện cách nhau 2 phút. SBP là khi có sự xuất hiện của tiếng Korotkoff (pha I) và DBP với sự biến mất của âm thanh (pha V).
  • Một số bệnh nhân, tiếng Korotkoff không biến mất đến 0 mm Hg. Trong trường hợp này, tiếng khởi đầu tiêu âm (muffling) của tiếng Korotkoff (pha IV) được tính là DBP. Cần phải cẩn thận để tránh đọc nhầm BP thấp hơn so với số thực do “lỗ thủng BP”, do tiếng Korotkoff mất đi rồi xuất hiện trở lại ở bệnh nhân tăng huyết áp và có thể chênh lệch đến 25 mm Hg giữa BP thật và SBP đo được. Tăng huyết áp cần được đo ở cả hai cánh tay, và ghi nhận BP bên cao hơn.
Chẩn đoán tăng huyết áp cực kì chính xác

Bệnh sử

  • Hỏi bệnh kỹ để tìm nguyên nhân của tăng huyết áp và chú ý tiền sử dùng các thuốc có thể ảnh hưởng đến huyết áp (v.d., thuốc nhỏ mũi chống viêm, thuốc tránh thai, thuốc ức chế sự thèm ăn, cyclosporine, thuốc chống viêm không steroid, hormon tuyến giáp ngoại sinh, uống rượu trong thời gian gần đây, cà phê, steroid đồng hóa, ma hoàng [ephedra], và các chất kích thích bất hợp pháp như cocaine).
  • Chẩn đoán tăng huyết áp thứ phát cần được xem xét trong các trường hợp sau đây:
  1. Tuổi khởi phát dưới 30 hoặc trên 60
  2. Tăng huyết áp rất khó kiểm soát sau khi điều trị ban đầu
  3. Tăng huyết áp ổn định trở nên khó kiểm soát
  4. Xảy ra cơn tăng huyết áp trên lâm sàng
  5. Xuất hiện dấu hiệu hoặc triệu chứng của nguyên nhân thứ phát như hạ kali máu hoặc nhiễm kiềm chuyển hóa không phải do thuốc lợi tiểu
  • Ở những bệnh nhân trẻ tuổi có tăng huyết áp, khai thác tiền sử gia đình cẩn thận có thể cung cấp các đầu mối tăng huyết áp theo di truyền Mendel đơn giản.

Khám thực thể

Khám lâm sàng bao gồm phát hiện tổn thương cơ quan đích hoặc nguyên nhân thứ phát của tăng huyết áp bằng cách phát hiện tiếng thổi động mạch cảnh, tiếng S3 hay S4, tiếng thổi ở tim, thiếu hụt thần kinh, áp lực tĩnh mạch cảnh cao, rales, bệnh võng mạc, nhịp không đều, thận to hay nhỏ, dấu hiệu của hội chứng Cushing, và tiếng thổi ở bụng. Thừa cân/béo phì cần được đánh giá bằng cách đo chiều cao và trọng lượng và/hoặc chu vi vòng eo.

Chẩn đoán phân biệt

  • Tăng huyết áp có thể là triệu chứng của một số hội chứng nghiêm trọng do hậu quả của các loại thuốc, bao gồm cả rượu, cocaine và thuốc giảm đau opioid.
  • Tăng huyết áp hồi ứng có thể xuất hiện ở những bệnh nhân đột ngột ngừng điều trị hạ huyết áp, đặc biệt là thuốc kháng -adrenergic và thuốc chủ vận 2 trung ương (xem biến chứng).
  • Cocaine và thuốc cường giao cảm khác (v.d., các chất kích thích, phencyclidine hydrochloride) có thể gây tăng huyết áp do ngộ độc cấp tính và khi ngừng thuốc đột ngột sau khi sử dụng kéo dài. Tăng huyết áp thường phức tạp hơn bởi tổn thương các cơ quan đích khác, chẳng hạn như bệnh tim thiếu máu cục bộ, đột quỵ và động kinh. Các thuốc giãn mạch (phentolamine) có hiệu quả trong điều trị tăng huyết áp cấp tính, và sodium nitroprusside hoặc nitroglycerin có thể được sử dụng thay thế (Bảng 3–2). Nên tránh dùng thuốc chẹn  giao cảm vì nguy cơ không đối kháng hoạt động của -adrenergic, có thể làm nặng thêm tăng huyết áp.

Test chẩn đoán

Xét nghiệm

Các xét nghiệm cần thiết để giúp xác định tổn thương cơ quan đích, nguy cơ tim mạch và là cơ sở để theo dõi tác dụng phụ của các biện pháp điều trị:
  • Xét nghiệm nước tiểu
  • Hematocrit
  • Đường máu
  • Kali máu
  • Creatinine máu
  • Canxi máu
  • Acid uric máu
  • Nồng độ lipid lúc đói
  • Điện tâm đồ (Electrocardiogram–ECG)
  • Chụp X-quang lồng ngực
  • Siêu âm tim có thể có giá trị đối với một số bệnh nhân để đánh giá chức năng tim hoặc phát hiện phì đại tâm thất trái (left ventricular hypertrophy–LVH).

No comments:

Post a Comment

Bottom Ad [Post Page]

| Thiết kể bởi Trung tâm y khoa